LIỆU PHÁP NỘI TIẾT TRONG ĐIỀU TRỊ UNG THƯ VÚ

LIỆU PHÁP NỘI TIẾT TRONG

ĐIỀU TRỊ UNG THƯ VÚ

                                           Bác sĩ Trần Nguyên Hà - Bệnh Viện Ung Bướu TPHCM

Ung thư vú là loại ung thư thường gặp nhất ở phụ nữ. Theo ghi nhận ung thư toàn cầu (Globocan) vào năm 2018, ước tính trên thế giới có trên 2 triệu mốt người mới mắc bệnh, tại Việt Nam khoảng trên 12 ngàn 2 trăm người. Những tiến bộ của chẩn đoán và điều trị giúp giảm rất nhiều tử vong do ung thư vú. Hiện nay, tỉ lệ khỏi bệnh là 80-90% ở giai đoạn 1 và 2, 40-60% ở giai đoạn 3, và khoảng 20% ở giai đoạn 4. Những trường hợp bệnh không khỏi vẫn có thể điều trị kéo dài cuộc sống Hiện nay, ung thư vú là một trong những loại ung thư kết hợp được nhiều mô thức điều trị (liệu pháp đa mô thức). Trong đó có liệu pháp nội tiết (LPNT), một trong những liệu pháp toàn thân hỗ trợ với ý nghĩa “nhắm trúng đích”. LPNT thường được sử dụng hỗ trợ cho bệnh nhân ung thư vú giai đoạn sớm để giúp giảm nguy cơ ung thư tái phát sau phẫu trị. LPNT còn được sử dụng để điều trị ung thư tái phát sau khi điều trị hoặc khi bệnh đã di căn.

    Ở phụ nữ còn kinh, buồng trứng là nguồn chủ yếu tiết ra hormone estrogen. Sau mãn kinh, một lượng estrogen nhỏ hơn vẫn được sinh ra từ mô mỡ của cơ thể và từ một hormone của tuyến thượng thận chuyển đổi thành estrogen.

      Khoảng 2/3 bệnh nhân ung thư vú có thụ thể nội tiết dương tính (thụ thể nội tiết được ký hiệu là ER và/hoặc PR). Ở các bệnh nhân này, estrogen là yếu tố thúc đẫy tế bào ung thư tăng trưởng. Do đó, LPNT được sử dụng để ngăn chặn tác động của estrogen hoặc làm giảm mức độ estrogen. LPNT không giúp ích cho bệnh nhân có thụ thể nội tiết âm tính.

      Tamoxifen ngăn chặn estrogen tiếp cận với các thụ thể estrogen trên tế bào ung thư. Đối với bệnh nhân ung thư vú có thụ thể nội tiết dương trước hoặc sau mãn kinh, dùng tamoxifen 5 năm sau khi phẫu trị làm giảm khoảng một nửa nguy cơ ung thư tái phát và giúp bệnh nhân sống lâu hơn. Một nghiên cứu gần đây cho thấy dùng trong 10 năm có thể còn hữu ích hơn.

      Tamoxifen cũng có thể được sử dụng để điều trị ung thư vú di căn, cũng như làm giảm nguy cơ phát triển ung thư vú ở phụ nữ có nguy cơ cao. Các tác dụng phụ thường gặp nhất của các loại thuốc này bao gồm mệt mỏi, bốc hỏa, khô âm đạo hoặc thay đổi tâm trạng. 

      Tác dụng phụ hiếm gặp, nhưng nghiêm trọng hơn là có thể làm tăng nguy cơ phát triển ung thư tử cung (ung thư nội mạc tử cung và ung thư tử cung) ở những phụ nữ đã mãn kinh. Báo cho bác sĩ biết ngay về triệu chứng chảy máu âm đạo bất thường (một triệu chứng phổ biến của cả hai bệnh ung thư). Xuất huyết tử cung không hẳn là ung thư, nhưng triệu chứng này luôn luôn cần sự quan tâm kịp thời.

      Một tác dụng phụ cũng hiếm và nghiêm trọng khác có thể là cục máu đông, thường hình thành ở chân (gọi là huyết khối tĩnh mạch sâu hoặc DVT). Đôi khi một mảnh của cục máu đông có thể vỡ ra và chặn một động mạch ở phổi (thuyên tắc phổi hoặc PE). Gọi bác sĩ hoặc y tá ngay nếu bạn thấy đau, đỏ, hoặc sưng ở chân, khó thở, hoặc đau ngực bởi vì chúng có thể là triệu chứng của một DVT hoặc PE.

      Tuy nhiên, đối với hầu hết bệnh nhân ung thư vú có thụ thể nội tiết dương, lợi ích của việc dùng thuốc này lớn hơn nhiều so với những rủi ro.

      Chất ức chế aromatase (AI): có ba thuốc làm ngừng tạo ra estrogen ở bệnh nhân ung thư vú sau mãn kinh đã được chấpthuận để điều trị ung thư vú sớm cũng như bệnh đã di căn: anastrozole (Arimidex ®), letrozole (Femara ®), và exemestane (Aromasin ®). Chúng tác động bằng cách ngăn chặn một loại enzyme mang tên aromatase, là một enzyme mấu chốt trong việc tạo ra một lượng nhỏ estrogen ở bệnh nhân sau mãn kinh. Tuy nhiên, các thuốc này không thể ngăn chặn estrogen được tiết ra từ buồng trứng ở bệnh nhân còn kinh, vì vậy các thuốc này chỉ có hiệu quả ở bệnh nhân nữ có buồng trứng không còn hoạt động (như sau khi mãn kinh).

      Một số nghiên cứu đã so sánh các loại thuốc này với tamoxifen trong điều trị hỗ trợ ở bệnh nhân ung thư vú sớm sau mãn kinh. Sử dụng các loại thuốc này, dùng đơn chất hoặc sau khi dùng tamoxifen, đã được chứng minh là giảm hơn nguy cơ tái phát hơn sử dụng tamoxifen đơn chất trong 5 năm cho một số phân nhóm bệnh nhân. Cách dùng mang lại lợi ích cho nhóm đối tượng này bao gồm:

     - Tamoxifen trong 2 đến 3 năm, tiếp theo là một chất ức chế aromatase (AI) để hoàn tất 5 năm điều trị (hoặc ngược lại)

       - Một chất AI sử dụng 5 năm 

       - Tamoxifen trong 5 năm, tiếp theo là một AI cho 5 năm

      Do các thuốc ức chế aromatase có tác dụng loại bỏ tất cả estrogen ở bệnh nhân sau mãn kinh, nên có thể gây ra mất xương, đôi khi dẫn đến loãng xương và thậm chí gãy xương. Bệnh nhân được điều trị bằng thuốc ức chế aromatase sẽ được tư vấn chăm sóc sức khỏe cho xương. Một số bệnh nhân cũng được điều trị bằng thuốc để tăng cường xương, chẳng hạnnhư bisphosphonates hoặc denosumab khi bác sĩ thấy thực sự cần thiết.

            Một chọn lựa điều trị nội tiết bổ sung là ức chế chức năng buồng trừng (Ovarian Functional Suppression-OFS) để điều trị hỗ trợ dành cho bệnh nhân ung thư vú giai đoạn sớm trẻ tuổi, còn kinh nguy cơ tái phát cao. Để ức chế chức năng buồng trứng thì có các phương pháp: phẫu thuật cắt buồng trứng, xạ trị hay dùng thuốc.(goserelin…)          

      Tóm lại, liệu pháp nội tiết dễ sử dụng, dung nạp tốt và hiệu quả cao. Nếu xét nghiệm cho thấy bướu có đáp ứng với nội tiết, bác sĩ sẽ lựa chọn loại thuốc nội tiết thích hợp cho bệnh nhân dựa vào tình trạng mãn kinh và một số yếu tố khác.Tuy nhiên, Khi được chỉ định điều trị nội tiết với thời gian dài, người bệnh cần tuân thủ theo đúng phác đồ để mang lại hiệu quả cao nhất. Khi thấy có dấu hiệu khác thường, người bệnh nên đi tái khám và báo cho bác sĩ biết, để bác sĩ kiểm tra và có hướng xử trí thích hợp.

 

HOTLINE 0916 248 159