Ung thư cổ tử cung là một trong những bệnh lý ác tính phổ biến nhất ở phụ nữ trên toàn thế giới. Tại Việt Nam, ung thư cổ tử cung là ung thư phụ khoa thường gặp nhất với mỗi năm có khoảng 319,523 trường hợp mới mắc và 170,831 ca tử vong (Theo Globocan 2018). Ung thư cổ tử cung thường được chẩn đoán ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản và việc điều trị tiêu chuẩn đối với ung thư cổ tử cung hiện nay bao gồm phẫu thuật cắt tử cung, hóa – xạ trị triệt để đều dẫn đến hậu quả cuối cùng là bệnh nhân sau khi khỏi bệnh sẽ không còn khả năng sinh con được nữa. Rất nhiều bệnh nhân ung thư trẻ tuổi có mong muốn một lần được làm cha mẹ. Do đó, việc xem xét điều trị bảo tồn chức năng sinh sản là một vấn đề quan trọng. Phụ nữ trẻ bị ung thư cổ tử cung có thể phù hợp cho việc điều trị bảo tồn chức năng sinh sản, như cắt cổ tử cung tận gốc, khi mà hầu hết được chẩn đoán ở giai đoạn sớm với tỷ lệ sống còn trên 90%. Những nghiên cứu quan sát được công bố trong một thập kỷ qua cho thấy dự hậu tốt về ung thư và sản khoa sau cắt cổ tử cung tận gốc. Hiện nay, theo tất cả các hướng dẫn điều trị ung thư cổ tử cung của các tổ chức quốc tế lớn (bao gồm NCCN của Hoa Kỳ và ESGO của Châu Âu) thì cắt cổ tử cung tận gốc được xem như là phương pháp điều trị bảo tồn chức năng sinh sản tiêu chuẩn và đang được áp dụng rộng rãi trên thế giới. Tuy nhiên, tại Việt Nam, trước khoa chúng tôi thực hiện kỹ thuật này thì không có một trung tâm ung bướu nào khác thực hiện.
Từ 7/2018 đến 8/2023, 14 phụ nữ trẻ được chẩn đoán ung thư cổ tử cung giai đoạn sớm được phẫu thuật cắt cổ tử cung tận gốc tại Khoa Ngoại 2, Bệnh viện Ung Bướu Tp.HCM. Tất cả bệnh nhân đều được chụp MRI bụng chậu nhăm xếp giai đoạn chính xác trước mổ. Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân của chúng tôi là:
(1) có giải phẫu bệnh là ung thư cổ tử cung và xếp giai đoạn trước mổ dựa vào lâm sàng và hình ảnh học là tư IA2-IB1 (Theo Figo 2018);
(2) tuổi dưới 45;
(3) có mong muốn bảo tồn chức năng sinh sản;
(4) không có băng chứng bướu lan vào cổ trong cổ tử cung;
(5) không có băng chứng di căn hạch chậu và hạch cạnh động mạch chủ bụng;
(6) Loại mô học: carcinôm tế bào gai hoặc cacrcinôm tuyến. Tất cả bệnh nhân đều được tư vấn kỹ lương về phương pháp phẫu thuật và ký tên đồng ý phẫu thuật.
Tất cả các trường hợp đã được thực hiện tại khoa đều chưa có trường hợp nào tái phát sau trung vị thời gian theo dõi 3 năm. Đặc biệt, trong đó có một trường hợp đã sinh con thành công với một bé trai khỏe mạnh vào tháng 4/2021. Trường hợp này đã được báo cáo trong một bài báo quốc tế. Ngoài ra, một trường hợp mang song thai khác cũng đã được ghi nhận và đang được theo dõi thai kỳ.
Bản quyền thuộc về Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM. Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản



