KHOA XẠ TRỊ TỔNG QUÁT

GIỚI THIỆU KHOA XẠ TRỊ TỔNG QUÁT

  1. Lãnh đạo đương nhiệm

Trưởng khoa: BSCK2. Hồ Văn Trung

Phó trưởng khoa: BSCK2. Trần Thị Xuân

Phó trưởng khoa: BSCK2. Nguyễn Quốc Bảo

Điều dưỡng trưởng khoa: CNĐD. Lê Thị Hồng Diên

 

  1. Nhân sự hiện có

Nhân lực hiện tại của khoa gồm có 18 bác sĩ ( 01 PGS TS, 02 thạc sĩ, 6 BSCK2, 09 BSCK1 và 23 điều dưỡng (20 CNĐD và 03 ĐD hạng 4).

  1. Lịch sử hình thành và phát triển

Năm 1985, Trung tâm Ung bướu TP.HCM thành lập Khoa Xạ trị, có nhiệm vụ xạ trị chung cho tất cả những bệnh nhân ung thư. Đến năm 1993, do nhu cầu tập trung chuyên môn cho từng mặt bệnh riêng biệt, Khoa Xạ trị được tách làm 3 khoa, trong đó Khoa Xạ 4 phụ trách các mặt bệnh ung thư tổng quát, ngoại trừ ung thư phụ khoa và ung thư vùng đầu mặt cổ. Từ 06/7/2020, Khoa Xạ 4 đổi tên thành Khoa Xạ trị tổng quát.

Đến ngày 13/7/2022, khoa được chuyển về Bệnh viện Ung bướu cơ sở 2 tại thành phố Thủ Đức. Hiện tại Khoa Xạ trị tổng quát vẫn hoạt động song song tại hai cơ sở, trong đó cơ sở 1 điều trị các bệnh nhân ngoại trú. Tại cơ sở 2, khoa có khu điều trị ngoại trú tại tầng hầm B1 tháp A và khu nội trú ở tầng 7 tháp B với 50 giường bệnh.

Theo số liệu năm 2023, tổng số lượt bệnh nhân điều trị nội trú và ngoại trú tại khoa đạt gần 11.000, đã có 3.900 bệnh nhân xạ trị với 69.215 lượt xạ trị.

Trong bối cảnh chung của Bệnh viện Ung bướu TP.HCM, Khoa Xạ trị tổng quát tiếp nhận bệnh nhân đến xạ trị ở khu vực thành phố và phần lớn các tỉnh thành thuộc đồng bằng sông Cửu Long, miền Đông Nam Bộ và miền Trung Tây Nguyên.

  1. Chức năng nhiệm vụ

Với sự xây dựng nền tảng chuyên môn tốt và không ngừng phấn đấu từ những ngày đầu thành lập, Khoa Xạ trị tổng quát ngày càng được bệnh nhân tin tưởng đến điều trị. Chức năng chính của khoa là tiếp nhận và điều trị cho bệnh nhân ung thư tổng quát. Khoa có thế mạnh xạ trị ung thư vú, ung thư đường tiêu hóa (thực quản, trực tràng, hậu môn), ung thư phổi, tuyến tiền liệt, bướu não, ung thư da, phần mềm, lymphoma… Ngoài ra, khoa còn xạ trị những trường hợp ung thư của trẻ em.

Tất cả bệnh nhân, sau khi được thăm khám và đánh giá tình trạng bệnh cẩn thận, đều được thông qua hội chẩn tại khoa để quyết định liệu trình điều trị. Theo định kỳ, Khoa Xạ trị tổng quát tham gia hội chẩn liên chuyên khoa của bệnh viện về bệnh lý tuyến vú, tiêu hóa và lồng ngực, góp phần đưa ra hướng giải quyết cho những trường hợp bệnh lý phức tạp. Bên cạnh đó, thông qua hội chẩn liên viện, khoa còn là địa chỉ tin cậy để nhiều đồng nghiệp gửi bệnh nhân đến xạ trị.

Không giống như các mô thức điều trị khác, để xạ trị được diễn ra an toàn và hiệu quả, cần có sự phối hợp làm việc theo nhóm gồm bác sĩ, điều dưỡng, kỹ sư, kỹ thuật viên. Do đó việc phối hợp nhịp nhàng với Khoa Kỹ thuật phóng xạ và Khoa Vận hành máy xạ giúp quy trình xạ trị cho bệnh nhân đạt được kết quả tối ưu.

Trong công tác đào tạo, khoa tiếp nhận và hướng dẫn các lớp sinh viên điều dưỡng, bác sĩ đại học và sau đại học từ Đại học Y Dược TP.HCM và Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, cùng các học viên chuyên khoa xạ trị của các bệnh viện bạn. Hiện nay, với nhiều đơn vị xạ trị mới được thành lập tại các tỉnh, thành nhằm giải quyết tình trạng quá tải, khoa còn là cơ sở đào tạo thực hành và chuyển giao kỹ thuật cho các bác sĩ, kỹ sư vật lý-y sinh, kỹ thuật viên tương xứng với chức năng, nhiệm vụ chuyên khoa của bệnh viện tuyến cuối.

Với mô hình sức khỏe bệnh tật ngày càng thay đổi, đặc biệt là bệnh ung thư, cùng nhu cầu sử dụng dịch vụ y tế ngày càng cao, Khoa Xạ trị tổng quát liên tục cập nhật phác đồ điều trị, đồng thời ứng dụng nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật về xạ trị để giúp người bệnh có cơ hội tiếp cận với những phương tiện điều trị tốt nhất.

Bên cạnh đó, khoa cũng liên tục thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, báo cáo tại các Hội thảo phòng chống ung thư hàng năm. Đặc biệt, trong thời gian qua, khoa cũng tham gia vào các nghiên cứu quốc tế về xạ trị ung thư phổi, ung thư thực quản (nghiên cứu PACIFIC, nghiên cứu KUNLUN).

Việc mở rộng hợp tác quốc tế cũng đặc biệt được chú trọng. Khoa có mối quan hệ hợp tác lâu dài với các trung tâm xạ trị ở các nước phát triển (Pháp, Hoa Kỳ, Australia). Đội ngũ chuyên gia nước ngoài thường đến tập huấn cho các bác sĩ, kỹ sư, kỹ thuật viên mỗi khi triển khai các kỹ thuật xạ trị mới, đồng thời nhiệt tình tư vấn các trường hợp bệnh lý khó, mang lại nhiều lợi ích cho bệnh nhân. Ngoài ra, các bác sĩ trong khoa còn có cơ hội được đến học tập tại các trung tâm xạ trị lớn trên thế giới, góp phần nâng cao trình độ và khả năng điều trị.

 

. 5. Những thành tựu trong chẩn đoán và điều trị bệnh

Trải qua 31 năm thành lập, xây dựng và phát triển với không ít những khó khăn, thử thách, được sự quan tâm của Ban lãnh đạo Bệnh viện và các anh chị đồng nghiệp, Khoa Xạ trị tổng quát đã đạt được những thành tựu trong chẩn đoán, điều trị và chăm sóc người bệnh. Nhiều năm khoa đạt danh hiệu tập thể lao động xuất sắc, bằng khen thành phố , được người bệnh tín nhiệm và tin yêu.

Nhờ cập nhật liên tục và áp dụng các phác đồ của thế giới, chất lượng điều trị ngày càng được cải thiện và góp phần giải quyết tình trạng bệnh nhân quá tải.

Cụ thể, xạ trị giảm phân liều trong ung thư vú giai đoạn sớm đã được triển khai rất sớm, từ năm 2008, giúp gia tăng số bệnh nhân được xạ trị, giảm thời gian chờ xạ, rút ngắn số ngày điều trị. Đây vốn là bệnh lý chiếm số lượng cao nhất tại khoa. Kết quả rất đáng khích lệ khi bệnh nhân giảm được các tác dụng phụ trên da, tỉ lệ tái phát tại chỗ ngang bằng với các nước tiên tiến. Ngoài ra, khoa đã áp dụng xạ trị hướng dẫn bề mặt (SGRT- Surface Guided Radiation Therapy) giúp gia tăng  điều trị chính xác. Đối với bệnh nhân bị ung thư vú bên trái, kỹ thuật xạ trị hít sâu nín thở (DIBH) giúp giảm liều xạ lên tim và phổi, từ đó giảm thiểu được tác dụng phụ.

Cũng về xạ trị giảm phân liều, khoa đang thực hiện đối với ung thư tuyến tiền liệt, góp phần hạ thấp chi phí điều trị và thời gian đi lại, khi mặt bệnh này thường gặp ở nam giới lớn tuổi.

Xạ trị trước mổ ung thư trực tràng áp dụng từ năm 2014 đã giúp bệnh nhân giảm đáng kể các tác dụng phụ trên đường tiêu hóa như đau bụng, tiêu chảy, đồng thời còn làm giảm tỷ lệ tái phát ở vùng chậu so với xạ trị sau mổ.

Ngoài kỹ thuật xạ trị thường quy 3D – CRT, ngày càng có nhiều bệnh nhân tại khoa được tiếp cận với các kỹ thuật hiện đại, bao gồm xạ trị điều biến thể tích cung tròn (VMAT: Volumetric modulated arc therapy), xạ trị điều biến liều (IMRT: Intensity-modulated radiation therapy), xạ trị theo hướng dẫn hình ảnh (IGRT: Image-Guided Radiation Therapy), xạ trị đồng bộ nhịp thở (4D-RT: Four-dimensional radiation therapy). Đặc biệt, các bệnh nhân có bướu phức tạp, vốn không thể điều trị bằng kỹ thuật truyền thống trước đây, được cải thiện kết quả điều trị với các kỹ thuật mới. Trong đó, nổi bật là ung thư phổi, thực quản và tuyến tiền liệt.

Kỹ thuật xạ phẫu (SRS: Stereotactic Radio Surgery) và xạ trị định vị thân (SBRT: Stereotactic body radiation therapy) giúp nhiều bệnh nhân di căn não, di căn phổi sống được thêm 4-5 năm thay vì đã tử vong trong vòng 3-6 tháng.

Hướng tới chất lượng và sự hài lòng của người bệnh, lãnh đạo và nhân viên của khoa đã liên tục đổi mới phong cách phục vụ. Đồng thời, luôn tích cực cập nhật các phương pháp điều trị mới, nghiên cứu khoa học, chung tay góp sức cùng với các khoa phòng và bệnh viện sánh tầm khu vực và quốc tế.

 

Bài được quan tâm

Xem tất cả